Bắt giữ Nguyễn Thị Hoàng Lệ Trinh sau 10 năm lợi dụng 2 lần mang thai bỏ trốn

Nguyễn Thị Hoàng Lệ Trinh là đối tượng truy nã đặc biệt nguy hiểm, lẩn trốn hơn 10 năm.
2025-10-1315-35-43-1760482852.jpg
Đối tượng Nguyễn Thị Hoàng Lệ Trinh đầu thú tại cơ quan Công an

Theo trang TTĐT Công an tỉnh Đồng Nai, Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (THAHS&HTTP) Công an tỉnh Đồng Nai đã tổ chức đấu tranh, truy bắt thành công Chuyên án 1124H, bắt giữ đối tượng Nguyễn Thị Hoàng Lệ Trinh (sinh năm 1981) là đối tượng truy nã đặc biệt nguy hiểm, lẩn trốn hơn 10 năm.

Trước đó, vào năm 2004, Nguyễn Hoàng Lệ Trinh bị Công an huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang (cũ) khởi tố bị can về các hành vi “Trộm cắp tài sản”, “Chứa mại dâm” và “Môi giới mại dâm” nhưng được cho tại ngoại do đang mang thai.

Đến ngày 17/6/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang (cũ) tuyên phạt Trinh 8 năm 6 tháng tù. Tuy nhiên, đối tượng đã bỏ trốn, không chấp hành bản án nên Phòng Cảnh sát THAHS & HTTP Công an tỉnh Kiên Giang (cũ) đã ra quyết định truy nã số 04 ngày 14/8/2012. Sau đó, ngày 14/9/2012, Phòng Cảnh sát hình sự (CSHS) Công an tỉnh Kiên Giang (cũ) tiếp tục bắt giữ Trinh, thi hành án tại Trại giam Định Thành (Bộ Công an, An Giang). Trong quá trình chấp hành án, Trinh mang thai và được Tòa án nhân dân tỉnh An Giang cho tạm đình chỉ thi hành án để sinh con. Hết thời gian tạm đình chỉ, đối tượng tiếp tục bỏ trốn.

Ngày 12/6/2015, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Đồng Nai ra quyết định truy nã đối với Nguyễn Hoàng Lệ Trinh. Bằng các biện pháp nghiệp vụ và công tác vận động người thân, đến ngày 3/10/2025, sau hơn 10 năm lẩn trốn, Phòng Cảnh sát THAHS&HTTP Công an tỉnh Đồng Nai đã vận động và tiếp nhận đối tượng ra đầu thú, đưa đi thi hành án tại Trại giam Định Thành (An Giang).

Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), cụ thể như sau:

* Khung 1:

Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;


+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

+ Tài sản là di vật, cổ vật.

* Khung 2:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

+ Có tổ chức;

+ Có tính chất chuyên nghiệp;

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

+ Hành hung để tẩu thoát;

+ Tài sản là bảo vật quốc gia;

+ Tái phạm nguy hiểm.

* Khung 3:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

* Khung 4:

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

* Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.