
Trước đó, ngày 5/6, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hưng Yên tiếp nhận đơn của chị L.T.H. (SN 1983, trú tại Hà Nội) tố cáo Huyền có hành vi lừa đảo thông qua hình thức mua bán đất đai. Sau khi nhận tiền, đối tượng cắt đứt liên lạc với bị hại, theo Pháp luật Việt Nam.
Cụ thể, sau hơn 4 tháng lẩn trốn, Huyền bị phát hiện đang làm công nhân tại một công ty trong Khu công nghiệp VSIP (tỉnh Bắc Ninh). Tổ công tác Công an tỉnh Hưng Yên đã triệu tập đối tượng về trụ sở để phục vụ điều tra.
Kết quả điều tra ban đầu cho thấy, năm 2019, chị H. quen biết Huyền khi cùng hợp tác trồng nho tại khu vực Ao Vối, thôn Đặng Đinh, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi (nay là xã Nguyễn Trãi, tỉnh Hưng Yên). Trong quá trình làm ăn, Huyền nảy sinh ý định lừa đảo để chiếm đoạt tiền của chị H.
Để tạo lòng tin, Huyền đưa ra thông tin gian dối rằng khu đất ruộng xung quanh vườn nho đang có giá 77 triệu đồng/sào (tương đương 360 m²) và chị H. có thể mua lại để mở rộng sản xuất. Huyền đề nghị chị H. chuyển tiền nhờ mua đất, đồng thời đề xuất đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do chị H. không phải người địa phương, sẽ khó thực hiện thủ tục vay vốn ngân hàng. Huyền hứa khi cần sẽ sang tên lại cho chị H.
Tin tưởng, trong thời gian từ tháng 11/2022 đến tháng 3/2023, chị H. nhiều lần chuyển tiền cho Huyền, tổng cộng hơn 3,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền, Huyền không thực hiện việc mua đất như cam kết mà sử dụng toàn bộ số tiền vào mục đích cá nhân. Khi mất khả năng chi trả, đối tượng bỏ trốn khỏi địa phương.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hưng Yên tiếp tục mở rộng vụ án, đồng thời đề nghị những ai từng bị Trần Thị Huyền lừa đảo chiếm đoạt tài sản liên hệ, trình báo tại Phòng Cảnh sát hình sự – Công an tỉnh Hưng Yên (số 79A đường Trưng Trắc, phường Phố Hiến, tỉnh Hưng Yên) để được giải quyết theo quy định.
Các khung hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự
* Khung 1
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
* Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Tái phạm nguy hiểm;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
* Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
* Khung 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
* Hình phạt bổ sung
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
(Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017))