Mới đây, Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Công an tỉnh Phú Thọ) vừa xác minh, làm rõ một vụ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng hình thức rao bán “bùa yêu”, “bùa đòi nợ”, “bùa làm ăn” trên mạng xã hội.
Trước đó, lực lượng chức năng phát hiện một số trang Facebook, tài khoản Zalo có tên “Bùa yêu xứ Mường”, “Bùa ngải xứ Mường”… thường xuyên đăng tải video, hình ảnh hành lễ, cùng các lời quảng cáo có khả năng “làm bùa yêu hiệu nghiệm 100%”, “gọi người yêu quay lại sau 3 ngày”. Các đối tượng yêu cầu người có nhu cầu chuyển khoản từ 500.000 đồng đến 4,5 triệu đồng để “làm lễ từ xa” và “chế tác bùa”.
Tuy nhiên, sau khi nhận được tiền, đối tượng lập tức chặn liên lạc, xóa tài khoản hoặc đổi tên trang, khiến người bị hại không thể liên hệ. Nạn nhân vì xấu hổ, ngại trình báo nên các vụ việc khó được phát hiện sớm.

"Bùa yêu" thực chất chỉ là thủ đoạn mà các đối tượng lợi dụng sự nhẹ dạ của nạn nhân để lừa đảo (Ảnh: Công an tỉnh Phú Thọ).
Qua các biện pháp nghiệp vụ, Phòng An ninh mạng đã xác định được đối tượng đứng sau các trang Facebook, tài khoản Zalo “Bùa yêu xứ Mường”, “Bùa ngải xứ Mường”… là Bùi Văn Khiểm (sinh năm 1996, trú tại xóm Chạo Nạc, xã Mường Vang, tỉnh Phú Thọ). Khiểm thường xuyên thay đổi các số điện thoại, sử dụng thông tin cá nhân của người thân, bạn bè để mở tài khoản ngân hàng phục vụ hoạt động lừa đảo.
Bước đầu, cơ quan Công an xác định đối tượng Bùi Văn Khiểm đã chiếm đoạt của hơn 100 người trên toàn quốc với tổng số tiền lên tới hàng trăm triệu đồng.

Hiện, hồ sơ vụ việc đã được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Phú Thọ để tiếp tục điều tra, làm rõ hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao khuyến cáo người dân tuyệt đối không tin tưởng vào các dịch vụ “bùa yêu”, “làm phép tâm linh” trên mạng. Đây hoàn toàn là các chiêu trò lừa đảo, đánh vào sự mê tín, yếu đuối trong tình cảm để chiếm đoạt tiền bạc.
Người dân khi phát hiện các trang, tài khoản có dấu hiệu quảng cáo, rao bán “bùa phép” hoặc kêu gọi chuyển tiền với nội dung mập mờ nên chụp lại bằng chứng, báo ngay cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc qua đường dây nóng của Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Công an tỉnh Phú Thọ để được hướng dẫn xử lý.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định cụ thể tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017), cụ thể như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Đã bị bãi bỏ;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Đã bị bãi bỏ;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.