VKSND TP Hà Nội vừa hoàn tất cáo trạng truy tố các bị can Hoàng Tùng (SN 1992, Giám đốc Công ty TNHH Nhà hàng Tung Dining) và Nguyễn Đỗ Ánh Nguyệt (SN 1992, cổ đông Công ty TNHH Nhà hàng Tung Dining) về tội Trốn thuế.

Trước đó, ngày 19/3/2024, Cục thuế TP Hà Nội thanh tra, phát hiện trong thời gian từ năm 2019-2023, Công ty TNHH Nhà hàng Tung Dining (Công ty Tung Dining) có dấu hiệu trốn thuế, bán hàng không xuất hóa đơn, doanh thu để ngoài sổ sách kế toán, không kê khai thuế theo quy định. Ngày 28/10/2024, Cục thuế Hà Nội đã chuyển hồ sơ đến Công an Hà Nội để điều tra, làm rõ, thông tin trên báo VietNamNet.
Theo VietNam+/TTXVN, kết quả điều tra xác định, Tùng là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật, trực tiếp điều hành mọi hoạt động của công ty. Còn Ánh phụ trách truyền thông, quảng cáo cho công ty, phục vụ tại nhà hàng của công ty, quản lý nhân sự và tập hợp quản lý tài khoản nhận tiền, phân chia lợi nhuận, chia tiền đến các cổ đông.
Tùng và Ánh cùng trực tiếp theo dõi tập hợp doanh thu, chi phí, sổ sách kế toán của công ty và báo chia lợi nhuận cho cổ đông. Các cổ đông khác không tham gia vào việc theo dõi sổ sách kế toán chi tiết, không được trực tiếp tham gia vào hoạt động kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp.
Cáo trạng thể hiện, công ty kê khai doanh thu nộp thuế từ năm 2018 đến năm 2023; trong đó, năm 2018 không phát sinh doanh thu; năm 2019-2020 lần lượt là hơn 3,9 tỷ đồng và 5 tỷ đồng; các năm 2021-2023 lần lượt là hơn 3,7 tỷ đồng; 8,8 tỷ đồng và 10,6 tỷ đồng.
Đối với kinh doanh và thu, chi tiền, công ty thường sử dụng hai tài khoản của Ngân hàng Agribank. Tuy nhiên, từ năm 2019-2023, công ty có doanh thu hơn 17,7 tỷ đồng.
Tùng và Ánh đã bàn bạc cùng nhau sử dụng tài khoản cá nhân để nhận tiền thanh toán, không xuất hóa đơn, không kê khai nộp thuế theo quy định nhằm trốn thuế.
Cụ thể, từ năm 2019-2023, Tùng sử dụng tài khoản của mình để nhận hơn 16 tỷ đồng, Ánh sử dụng tài khoản nhận hơn 19 tỷ đồng.
Như vậy, doanh thu thực tế công ty là hơn 53 tỷ đồng. Tuy nhiên, Tùng và Ánh khai thuế doanh thu là hơn 29,4 tỷ đồng; không kê khai, nộp thuế doanh thu là hơn 23,5 tỷ đồng.
Cơ quan điều tra xác định, số tiền không kê khai nộp thuế, Tùng và Ánh thực hiện chi cổ tức, lợi nhuận cho người góp vốn hơn 6,7 tỷ đồng. Hơn 16,8 tỷ đồng còn lại, cả hai dùng để mua nguyên vật liệu và chi phí hoạt động kinh doanh của công ty.
Ngày 19/3/2024, Cục Thuế thành phố Hà Nội thanh tra và phát hiện công ty có hành vi trốn thuế hơn 2,4 tỷ đồng; trong đó, thuế giá trị gia tăng là hơn 2,1 tỷ đồng, thuế thu nhập cá nhân là hơn 335 triệu đồng.
Sau khi sự việc bị phát giác, quá trình điều tra, Tùng và Ánh đã nộp khắc phục số tiền trên.
Theo Điều 200 Bộ luật Hình sự 2025, điểm a, điểm b khoản 47 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ Luật Hình sự 2017 có định về tội trốn thuế như sau:
- Người nào thực hiện một trong các hành vi trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
+ Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
+ Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
+ Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;
+ Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
+ Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
+ Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
+ Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
+ Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 188 và Điều 189 của Bộ luật này;
+ Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
+ Có tổ chức;
+ Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 1.500.000.000 đồng đến 4.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
+ Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;
+ Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;
+ Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;
+ Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
+ Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm".