“Bối cảnh thế giới và khu vực trong thời kỳ mới vừa đem lại những thuận lợi, thời cơ và cả những khó khăn, thách thức. Tiến bộ khoa học công nghệ sẽ định hình nền kinh tế và quyền lực của các quốc gia trên toàn cầu. Nguy cơ tụt hậu công nghệ của Việt Nam sẽ lớn hơn nếu không thích ứng được trước xu hướng phát triển khoa học công nghệ nhanh của thế giới. Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao năm 2030, có khả năng cạnh tranh, hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao sẽ phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực và thực thi chính sách của chính phủ.
Một số vấn đề đặt ra cho Việt Nam
Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập bình quân đầu người cao và năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Để trở thành quốc gia thu nhập cao năm 2045, yêu cầu đặt ra là phải tăng hơn gấp ba thu nhập đầu người hiện nay của Việt Nam trong giai đoạn hai mươi năm (2025 - 2045). Điều đó có nghĩa là phải duy trì tăng trưởng bền vững GDP theo đầu người ở mức khoảng hơn 6% - 8% mỗi năm và duy trì tăng trưởng năng suất lao động thậm chí còn cao hơn nữa ở mức 6,3%, trong điều kiện dân số ở độ tuổi lao động sẽ giảm tương đối và bối cảnh thương mại toàn cầu đang có nhiều biến động sâu sắc.
Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức: Về cơ hội, thế và lực của Việt Nam đã được cải thiện mạnh mẽ từ Đại hội XIII của Đảng, với thế và lực của Việt Nam ngày càng gia tăng. Việt Nam có hệ thống mạng lưới 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện giúp Việt Nam giữ được ổn định trước các tác động của tình hình thế giới và khu vực, giúp Việt Nam có điều kiện và năng lực tự cường với khả năng điều chỉnh linh hoạt, khả năng chống chịu trước các cú sốc đến từ bên ngoài và khả năng hồi phục nhanh sau tác động.
Giữ được môi trường ổn định giúp Việt Nam có nhiều cơ hội thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 đạt được các tiêu chí cơ bản của một nước công nghiệp hóa. Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc giúp Việt Nam gia tăng thị phần xuất khẩu sang hai thị trường Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam sẽ đóng vai trò là nước thứ ba để xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang Mỹ.
Ảnh minh hoạ
Tác động của cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư đẩy nhanh xu hướng hình thành cục diện thế giới đa cực. Trung Quốc đang trỗi dậy, Nga vẫn giữ được sức mạnh. Ảnh hưởng của Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia còn hạn chế. Việt Nam nhận được nhiều lợi ích từ 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) và có được nhiều cơ hội thuận lợi, tiếp tục thu hút FDI, công nghệ và gia tăng thương mại.
Nếu Việt Nam duy trì và khai thác hiệu quả hệ thống mạng lưới 34 đối tác chủ chốt, đây sẽ là xu thế lớn đối với Việt Nam khi có 34 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện được thiết lập. Việt Nam cũng có khả năng thu hút mạnh đầu tư và hỗ trợ của Mỹ vào công nghiệp bán dẫn nhờ vị trí chiến lược của mình và những thành công trong xuất khẩu hàng điện tử, tiềm năng về nguồn cung đất hiếm.
Việt Nam có cơ hội trong lĩnh vực chip (bán dẫn) khi hội tụ được 22 triệu tấn đất hiếm (năm 2022). Đất hiếm được sử dụng trong sản xuất bán dẫn - thành phần không thể thiếu trong các thiết bị công nghệ cao (điện thoại di động, ổ cứng máy tính, xe điện…). Ngành công nghiệp bán dẫn phụ thuộc nhiều vào đất hiếm.
Việt Nam cũng đóng vai trò là trung gian kết nối của Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc, vận chuyển hàng hóa từ các nước ASEAN sang Trung Quốc. Trong giai đoạn 2030 - 2045, khó có khả năng xuất hiện một cường quốc mới dựa trên tiềm lực khoa học công nghệ dẫn đầu. Thương mại toàn cầu chuyển dịch hướng đến châu Á tạo cơ hội để Việt Nam đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu.
Năm 2045, dự báo kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Quy mô GDP đạt khoảng 2.400 tỷ USD, gấp 3 lần quy mô GDP năm 2030 và gấp 6,9 lần quy mô GDP năm 2020. Thu nhập GDP bình quân đầu người đạt khoảng 19.000 USD, gấp 2,5 lần năm 2030 và gấp khoảng 5,4 lần năm 2020. Mức GDP bình quân đầu người cao giúp Việt Nam gia nhập nhóm các nước có thu nhập cao theo tiêu chí phân loại của WB. Năng suất lao động theo giá hiện hành đến năm 2045 đạt khoảng 42.000 USD, gấp 2,8 lần năm 2030 và gấp khoảng 5 lần năm 2020.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu thay đổi và bất ổn gia tăng, Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa quan hệ đối tác thương mại và đầu tư sẽ rất cần thiết để xây dựng khả năng phục hồi và bảo đảm thành công lâu dài.
Về thách thức: Để đạt mục tiêu năm 2030 là nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đời sống của nhân dân được nâng cao trong bối cảnh quốc tế gặp nhiều khó khăn, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh kinh tế toàn cầu phát triển chậm lại, thế giới chia rẽ và phân mảnh; toàn cầu hóa chững lại so với giai đoạn trước.
Thách thức đặt ra là Việt Nam phải thực hiện quá trình chuyển đổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang có nhiều biến động sâu sắc. Tác động của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 đã phá vỡ cấu trúc thị trường lao động truyền thống. Dự báo đến năm 2035, quy mô tầng lớp trung lưu toàn cầu có thể đạt 2,7 tỷ người, tương đương khoảng 30% dân số thế giới.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra ba thách thức chính cho Việt Nam: Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam khó tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu do năng lực và mức độ sẵn sàng còn thấp; thứ hai, cơ hội thu hút FDI có thể giảm đi so với trước; thứ ba, đội ngũ nhân lực lao động Việt Nam bị tác động do việc làm bị thay thế bởi người máy và xu hướng chuyển đầu tư chuyển về gần thị 25 trường tiêu thụ, cơ hội học tập bị suy giảm do công việc ngày càng đơn giản hóa.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đem lại cơ hội học hỏi, gia tăng các loại hình việc làm mới tạo cơ hội “rượt đuổi và bắt kịp” cho những nước đi sau như Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ tụt hậu công nghệ lớn hơn nếu không thích ứng được trước xu hướng phát triển công nghệ nhanh chóng hiện nay. Để thu hút được nguồn đầu tư phát triển công nghệ hàng đầu của Mỹ trong bối cảnh thế giới đang bị phân mảnh, Mỹ theo đuổi chiến lược “sản xuất tại nước Mỹ” (on shoring) và “đầu tư vào các nước bạn bè Mỹ” (friend shoring), Việt Nam cần xây dựng được lòng tin chiến lược từ đối tác, để các đối tác đầu tư công nghệ cao hoặc bán công nghệ cao cho Việt Nam.
Nhằm chiếm được lòng tin chiến lược từ đối tác, Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp từ chính trị, đối ngoại đến các cơ chế bảo đảm và tăng cường năng lực trong những lĩnh vực cần thiết.
Một số đề xuất giải pháp chính sách
Để đạt được mục tiêu đặt ra cho giai đoạn 2030 - 2045, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, Việt Nam cần tận dụng, nắm bắt những cơ hội tích cực từ bên ngoài, hạn chế các rủi ro, thách thức. Mặc dù có một số thách thức kinh tế toàn cầu đang nổi lên, một số thách thức có thể biến thành cơ hội nếu chính phủ thực hiện các biện pháp can thiệp chính sách kịp thời và phù hợp. Ngân hàng thế giới (WB) đề xuất 5 nhóm cơ hội về chính sách giúp Việt Nam đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao năm 2045, với trọng tâm cải cách kinh tế và phát triển bền vững.
Một là, đẩy mạnh hội nhập sâu vào thương mại khu vực, tập trung khai thác các hiệp định thương mại CPTPP, RCEP và hạ thấp rào cản thương mại phi thuế quan, tự do hóa thương mại dịch vụ, đẩy mạnh kết nối khu vực. Phát triển thương mại số. Hội nhập sâu vào thương mại khu vực châu Á chính là cách tiếp cận thị trường, đa dạng hoá xuất khẩu và nhập khẩu.
Hai là, tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu để nâng cao năng suất và tạo giá trị gia tăng nội địa. Triển khai các cơ chế tài chính chuỗi cung ứng và chương trình phát triển nhà cung cấp. Hội nhập sâu của các chuỗi giá trị trong nước sẽ đem lại những lợi ích vượt bậc về cơ hội kinh tế, đẩy mạnh năng suất và phát triển bao trùm;
Ba là, thúc đẩy các hoạt động sử dụng công nghệ cao với kỹ năng chuyên sâu và khu vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tăng cường dịch vụ hóa xuất khẩu, giảm lệ thuộc vào gia công, lắp ráp giá trị thấp. Hạ rào cản đầu tư vào dịch vụ viễn thông, tài chính và vận tải. Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và sử dụng công nghệ hiện đại. Chuyển sang hoạt động thâm dụng công nghệ và phát triển sản xuất, dịch vụ có kỹ năng đem lại giá trị gia tăng cao bằng cách cải thiện công nghệ, kỹ năng và đổi mới sáng tạo;
Bốn là, hình thành lực lượng lao động có kỹ năng cao. Tiếp tục đầu tư vào giáo dục đại học, đào tạo kỹ thuật và phát triển kỹ năng chuyên sâu. Khuyến khích đào tạo các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) và nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Năm là, bảo đảm cung cấp năng lượng bền vững và thúc đẩy quá trình khử cacbon. Chuyển sang xuất khẩu các mặt hàng các bon thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Tập trung sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đầu tư hạ tầng năng lượng sạch và tăng khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu, khuyến khích áp dụng công nghệ xanh. Đầu tư hạ tầng điện, xanh hoá các lĩnh vực chế tạo, chế biến là hướng đi chính để duy trì năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Thứ hai, vai trò của nhà nước trong xây dựng, phát triển thể chế, bứt phá năng suất chất lượng hiệu quả. Đầu tư mạnh về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhà nước cần có vai trò tạo nền tảng, tạo thể chế. Hoàn thiện thể chế và phát triển khoa học - công nghệ là “chìa khóa” của thành công. Thể chế và nội lực là những yếu tố quyết định.
Cách thức mà Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) triển khai là tập trung cải cách thể chế, huy động nguồn nhân lực chất lượng cao từ bên ngoài vào các khâu chủ chốt của quá trình cải cách thể chế. Chất lượng thể chế là nguyên nhân chính tạo nên sự khác biệt giữa các nước công nghiệp hóa mới ở khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Để đạt được mục tiêu, Việt Nam cần nỗ lực thúc đẩy ba khâu đột phá: thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực. Trong đó, thể chế cần được ưu tiên hàng đầu. Tạo lập hệ thống thể chế thực sự kiến tạo cho sự phát triển bền vững. Bản thân thể chế phải có tính chất bền vững, ổn định.
Đột phá về thể chế là những thay đổi đủ lớn, đủ nhanh, đủ mạnh về thể chế, tháo bỏ được các nút thắt thể chế, tạo bước tiến nhảy vọt của quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại. Đổi mới thái độ và cách thức quản lý nhà nước theo hướng quản trị hiện đại; Quản lý nhà nước phải theo tôn chỉ phục vụ phát triển, vì phát triển, theo kịp quá trình phát triển; Nhà nước không cạnh tranh với người dân và doanh nghiệp.
Nhà nước nên là “bà đỡ”, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn phát triển doanh nghiệp. Nhà nước chỉ cung cấp sản phẩm dịch vụ cần thiết cho phát triển kinh tế xã hội mà khu vực tư nhân không làm được theo nguyên tắc lợi ích của kinh tế thị trường, tạo lập và hoàn thiện các yếu tố nền tảng để góp phần huy động và phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường.
Thứ ba, tạo nền tảng thúc đẩy khu vực tư nhân để khu vực kinh tế tư nhân trỗi dậy mạnh mẽ, kỳ diệu. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế”. Trong gần 40 năm đổi mới (1986 - 2024), khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp không nhỏ trong phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, so với kỳ vọng vẫn còn khoảng cách lớn.
Để kinh tế tư nhân phát triển trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nâng cao chất lượng của khu vực kinh tế tư nhân thì bên cạnh nỗ lực của chính khu vực kinh tế tư nhân, cần có những hỗ trợ căn cơ từ Nhà nước, trong đó vấn đề cốt lõi là tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, tạo nền tảng vững chắc hơn nữa, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ phát triển.
Bên cạnh đó, thúc đẩy áp dụng mạnh kinh tế số, chuyển đổi sang kinh tế số, góp phần quan trọng để phát triển bền vững kinh tế tư nhân. Nhà nước tạo thể chế, chính sách phù hợp nhằm hỗ trợ cho khu vực tư nhân trong giai đoạn chuyển đổi số. Để kinh tế tư nhân trở thành động lực thực sự của nền kinh tế thì các chính sách của chính phủ cần chú trọng làm tăng các chỉ số về giá trị gia tăng, hoạt động sáng tạo, phát minh sáng chế, năng suất và chất lượng sản phẩm, các tiến bộ về công nghệ và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân ứng dụng, nhận chuyển giao khoa học công nghệ một cách có lộ trình trên cơ sở năng lực của từng doanh nghiệp nhằm tích lũy về kinh nghiệm, kiến thức, bí quyết công nghệ và dần chuyển qua giai đoạn phát minh, sáng chế…
Để đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại năm 2030 và nước phát triển, thu nhập cao năm 2045 cần coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chủ chốt, là “chìa khoá vàng”, là yếu tố sống còn để vượt qua bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hóa khát vọng hùng cường và thịnh vượng của Việt Nam”.