Khởi tố giám đốc Trần Thị Mỹ Hoàng

Công an tỉnh Đăk Lăk đã khởi tố giám đốc tài chính Trần Thị Mỹ Hoàng, 31 tuổi để điều tra tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
dak-lak-847-1760198072512262113924-1760325915.webp
Công an khám xét, làm việc với các đối tượng và tang vật liên quan (Ảnh: Tiền phong)

Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05, Bộ Công an) cho biết vừa phối hợp với Công an tỉnh Đăk Lăk triệt phá đường dây tội phạm do Trần Thế Huy, 33 tuổi, Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ Huy Hoàng FN, cầm đầu.

Hiện, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đăk Lăk đã khởi tố Huy và giám đốc tài chính của công ty là Trần Thị Mỹ Hoàng, 31 tuổi (em gái Huy) để điều tra tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.

Cơ quan điều tra xác định, từ năm 2022, Huy thành lập 9 chi nhánh tại các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Quảng Ngãi và TP.HCM, sau đó ký hợp đồng với một số công ty tài chính, ngân hàng để liên kết tư vấn mở thẻ tín dụng vay tiền mặt nhằm hưởng hoa hồng.

Để có nguồn khách hàng, Huy và Hoàng đã mua hàng chục nghìn dữ liệu cá nhân rồi chỉ đạo nhân viên giả danh nhân viên ngân hàng gọi điện tư vấn, dụ dỗ người dân mở thẻ tín dụng và rút tiền.

Khi khách hàng mở thẻ thành công, nhân viên công ty hướng dẫn kích hoạt và lôi kéo họ rút tiền mặt thông qua hình thức lập khống hóa đơn mua hàng để thanh toán trên các ứng dụng Ngân lượng, MPOS, VNPay. Mỗi lần rút tiền, công ty của Huy thu phí từ 5-10% số tiền rút của chủ thẻ.

Bước đầu, cơ quan điều tra xác định, đường dây này đã chiếm đoạt khoảng 80 tỷ đồng của hàng trăm nghìn người dân trên cả nước thông qua việc mở 200.000 thẻ tín dụng.Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã khởi tố, bắt tạm giam 4 tháng đối với Trần Thế Huy và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Trần Thị Mỹ Hoàng do đối tượng này đang mang thai.

Theo quy định tại Điều 290 Bộ Luật hình sự 2015 (có hiệu lực ngày 01/01/2018) thì:

1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

b) Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

c) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;

d) Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;

đ) Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Có tính chất chuyên nghiệp;

d) Số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới 200 thẻ;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

c) Số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thiệt hại 500.000.000 đồng trở lên;

c) Số lượng thẻ giả 500 thẻ trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Dấu hiệu pháp lý của tội danh này là:

Thứ nhất, khách thể: Tội phạm này xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh mạng viễn thông, đồng thời xâm phạm quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân.

Thứ hai, chủ thể: Chủ thể của tội danh này là chủ thể thường, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt tuổi luật định.

Thứ ba, mặt khách quan: Thực hiện hành vi sử dụng mạng viễn thông để chiếm đoạt tài sản của tổ chức, cá nhân. Cụ thể là:

- Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

- Làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;

- Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;

- Lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản;

- Thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

Thứ tư, mặt chủ quan: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.

Hình phạt áp dụng đối với tội danh này là:

Đối với trường hợp thuộc cấu thành cơ bản: Người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Đối với trường hợp thuộc cấu thành tăng nặng: Người phạm tội có thể bị bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm (Khoản 2) hoặc bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (Khoản 3) hoặc phạt tù từ 12 năm đến 20 năm (Khoản 4). Ngoài ra, người phạm tội còn bị áp dụng các hình phạt bổ sung được quy định tại Khoản 5.

 

Mỹ Anh (t/h)