Hành vi không tố giác tội phạm được hiểu là như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, hành vi không tố giác tội phạm được hiểu là hành vi của người biết rõ về việc một tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện, nhưng không thực hiện nghĩa vụ tố giác tội phạm đó với cơ quan có thẩm quyền.
Điều này có nghĩa là nếu một người biết rõ có tội phạm xảy ra hoặc đang xảy ra xung quanh mình mà không báo cáo cho cơ quan chức năng, thì người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm, theo Điều 390 của Bộ luật Hình sự.
Cụ thể hơn, hành vi không tố giác tội phạm không chỉ bao gồm việc không báo cho cơ quan chức năng biết về một tội phạm đã được thực hiện mà còn bao gồm cả việc biết trước một tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đang trong quá trình thực hiện nhưng vẫn giữ im lặng, không thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để ngừng hành vi vi phạm.
Điều này nhấn mạnh nghĩa vụ của mỗi công dân trong việc góp phần ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm, đồng thời cũng thể hiện vai trò trách nhiệm của cộng đồng trong việc bảo vệ an ninh trật tự xã hội.
Do đó, hành vi không tố giác tội phạm không chỉ là một sự thiếu sót về mặt đạo đức mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về pháp lý, khi người không tố giác có thể phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.
Không tố giác tội phạm bị xử phạt hành chính hay hình sự?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung bởi khoản 5 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, hành vi không tố giác tội phạm của một số đối tượng nhất định sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cụ thể, những người là thân nhân trực hệ của người phạm tội, bao gồm ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội, sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác tội phạm, trừ trường hợp họ không tố giác các tội phạm được quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Chương XIII của Bộ luật Hình sự quy định về các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, do đó, những hành vi không tố giác liên quan đến các tội phạm này sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự, dù đối tượng là người thân của người phạm tội.
Bên cạnh đó, điều luật cũng quy định một ngoại lệ khác đối với những người thực hiện chức năng bào chữa. Người bào chữa, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thân chủ, không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác tội phạm, trừ khi hành vi phạm tội mà họ biết được là một trong những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm quy định tại Chương XIII mà chính người mà họ bào chữa đang chuẩn bị, thực hiện hoặc đã thực hiện, và người bào chữa biết rõ về hành vi phạm tội đó khi thực hiện việc bào chữa.

Hình minh họa.
Như vậy, những đối tượng như người thân trong gia đình hoặc người thực hiện chức năng bào chữa, dù không tố giác tội phạm, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, vẫn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này nhằm tạo sự linh hoạt và bảo vệ quyền lợi của các cá nhân trong những tình huống đặc thù, như bảo vệ quyền riêng tư của gia đình hay bảo vệ quyền bào chữa hợp pháp của người bị cáo.
Tuy nhiên, nếu là các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, pháp luật sẽ yêu cầu những cá nhân này thực hiện nghĩa vụ tố giác để bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung, nếu họ biết rõ về hành vi phạm tội liên quan đến các tội đặc biệt nghiêm trọng dưới đây mà không thực hiện nghĩa vụ tố giác thì sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự:
(1) Tội phản bội Tổ quốc, quy định tại Điều 108 Bộ luật Hình sự 2015, là hành vi xâm phạm lợi ích của quốc gia, đi ngược lại với sự tồn vong của đất nước.
(2) Tội phản bội Tổ quốc, quy định tại Điều 109, là hành vi lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm an ninh quốc gia.
(3) Tội gián điệp, quy định tại Điều 110, là hành vi thu thập, cung cấp thông tin có lợi cho kẻ thù, gây tổn hại đến an ninh quốc gia.
(4) Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ, quy định tại Điều 111, là hành vi đe dọa hoặc tấn công vào biên giới, lãnh thổ của Việt Nam.
(5) Tội bạo loạn, quy định tại Điều 112, là hành vi tổ chức, tham gia vào các cuộc bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền.
(6) Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 113, là hành vi sử dụng bạo lực để phá hoại an ninh quốc gia.
(7) Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định tại Điều 114, là hành vi gây hư hại các công trình quan trọng, thiết yếu của quốc gia.
(8) Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, quy định tại Điều 115, là hành vi làm gián đoạn các chương trình, chính sách phát triển của đất nước.
(9) Tội phá hoại chính sách đoàn kết, quy định tại Điều 116, là hành vi gây chia rẽ, làm suy yếu mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc, các tầng lớp trong xã hội.
(10) Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định tại Điều 117, là hành vi phát tán các thông tin sai sự thật, kích động thù hận, chống lại Nhà nước.
(11) Tội phá rối an ninh, quy định tại Điều 118, là hành vi gây rối trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội.
(12) Tội chống phá cơ sở giam giữ, quy định tại Điều 119, là hành vi tấn công vào các cơ sở giam giữ, nhằm giải cứu tù nhân hoặc phá vỡ hệ thống thi hành án.
(13) Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 120, là hành vi giúp đỡ, tổ chức cho người khác trốn khỏi đất nước, vi phạm luật pháp quốc gia.
(14) Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân, quy định tại Điều 121, là hành vi vi phạm pháp luật bằng cách lẩn trốn, sống ngoài lãnh thổ Việt Nam để tránh sự kiểm soát của nhà nước.
Những tội phạm này không chỉ xâm phạm đến lợi ích, an ninh quốc gia mà còn đe dọa đến trật tự xã hội, sự ổn định và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, pháp luật yêu cầu mọi công dân, kể cả những người thân của người phạm tội hoặc người bào chữa, phải có nghĩa vụ tố giác những hành vi phạm tội này.
Việc không tố giác có thể dẫn đến việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhằm đảm bảo rằng những hành vi phạm tội nghiêm trọng không được che giấu và sẽ bị xử lý kịp thời để bảo vệ an ninh, trật tự quốc gia.
Hình phạt đối với hành vi không tố giác tội phạm
Căn cứ theo Điều 390 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung bởi khoản 138 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, tội không tố giác tội phạm được quy định cụ thể đối với những người biết rõ về các tội phạm đang được chuẩn bị hoặc đã và đang được thực hiện, nhưng không tố giác hành vi phạm tội đó với cơ quan có thẩm quyền.
Nếu hành vi không tố giác này không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo các quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 19 của Bộ luật Hình sự, thì người không tố giác sẽ bị xử lý bằng hình thức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một tình tiết giảm nhẹ đối với người không tố giác tội phạm. Cụ thể, nếu người này đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc đã chủ động hạn chế tác hại của tội phạm, ví dụ như ngừng hành vi phạm tội, giúp đỡ khắc phục hậu quả hoặc ngăn chặn sự lan rộng của hành vi phạm tội, thì họ có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt. Đây là một điểm quan trọng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, khuyến khích những người biết về hành vi phạm tội nhưng có ý thức sửa chữa, cải thiện hành vi của mình hoặc có những hành động tích cực, góp phần giảm thiểu hậu quả của tội phạm.