Tìm bị hại của Nguyễn Văn Hải - đối tượng lừa đảo mua bán đất

Ai là bị hại của Nguyễn Văn Hải thì liên hệ đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Nội (Số điện thoại cán bộ thụ lý: 039 7121722)

Ngày 20/10, tin từ Cổng TTĐT Công an thành phố Hà Nội, đơn vị đang thụ lý, điều tra vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra từ tháng 10/2024 đến tháng 01/2025, trên địa bàn huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội.

image002-1-1763640542.jpg
Đối tượng Nguyễn Văn Hải

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Văn Hải (SN 1989, trú tại: phường An Thượng, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; nay là phường Thành Đông, TP Hải Phòng) đã sử dụng thông tin gian dối, giấy tờ giả mạo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” và giấy “Trích đo hiện trạng thử đất” đối với một số thửa đất trên địa bàn xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội, để rao bán trên mạng xã hội (Facebook, Zalo...).

Sau khi có khách mua đất liên hệ hỏi mua, thì Hải tiếp tục cung cấp các thông tin gian dối, hình ảnh các giấy tờ giả mạo trên cho những khách hàng này. Đối tượng khẳng định các thông tin, giấy tờ trên là đúng với hiện trạng thửa đất và bản thân là người đứng tên chủ đất, nhằm làm người mua tin tưởng mà ký kết hợp đồng, giao tiền đặt cọc cho Hải.

Bằng thủ đoạn trên, từ khoảng tháng 10/2024 đến nay, Hải đã chiếm đoạt của nhiều nạn nhân, với số tiền từ 300 triệu đồng đến 900 triệu đồng mỗi người. Căn cứ vào tài liệu thu thập được, Cơ quan điều tra đã bắt giữ Nguyễn Văn Hải về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Để phục vụ công tác điều tra, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Nội đề nghị ai là bị hại của Nguyễn Văn Hải với thủ đoạn tương tự nêu trên thì liên hệ đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hà Nội (Số điện thoại cán bộ thụ lý: 039 7121722) để phối hợp giải quyết vụ việc theo quy định.

Tài liệu tham khảo từ Thư viện pháp luật: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối để làm người khác tin tưởng nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật.

Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm phổ biến với những phương thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây thiệt hại lớn về tài sản.

Theo đó, Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bởi điểm a, điểm c khoản 3 Điều 2 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định về khung hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

Khung 1: Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

- Có tổ chức;

- Có tính chất chuyên nghiệp;

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

- Tái phạm nguy hiểm;

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

- Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Khung 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Như vậy, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Để biết chính xác mức phạt tù đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội trong từng trường hợp cụ thể.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

 

Nam Anh (t/h)